LTS: Thời gian gần đây nhiều trang trên mạng xã hội đồng loạt đưa tin sốt dẻo về một phương pháp mới: tiêm vaccine chữa được bệnh ung thư. Vì nguồn tin chính là từ Nhật Bản, xin giới thiệu bài viết dành cho bạn đọc phổ thông của BS. TS. Phạm Nguyên Quý, hiện đang làm việc tại Khoa Ung thư Nội khoa, Bệnh viện Đại học Kyoto về vấn đề này.
Nhật Bản là nơi mà nhiều nghiên cứu về Y Sinh đã đạt giải Nobel, nhưng đáng tiếc thay, nó cũng là nơi khởi đầu một số trào lưu "điều trị ung thư" tạp nham, loạn xị.
Liên quan tới từ khóa miễn dịch, việc ngâm suối nước nóng vùng có phóng xạ Radon hay nâng cao thân nhiệt để "kích thích miễn dịch" đã một thời được ưa chuộng và lan truyền.
Các loại thực phẩm chức năng từ Nhật Bản, mặc dù không có công dụng trong điều trị ung thư và bị các Hiệp hội chuyên ngành cảnh báo, nhưng vẫn ra rả quảng cáo tại Việt Nam là "kích thích miễn dịch" để hỗ trợ chữa bệnh.
Giải Nobel Y học và Sinh lý học năm 2018 được trao cho nghiên cứu về miễn dịch của hai giáo sư Allison và Honjo đã "tăng sức nóng" của các sản phẩm liên quan tới từ "miễn dịch", bất chấp phần nhiều trong số đó chỉ là "hàng nhái" ăn theo.
Còn mới nhất là làn sóng vaccine chữa ung thư, với một số website loan tin rôm rả rằng đã có số liệu lâm sàng cho vaccine tự thân. Một số trang còn đưa cả những trường hợp lành bệnh nhờ vaccine, nhưng câu chuyện đằng sau có hoàn toàn như thế thật không, lại cần hết sức thận trọng.
Hiểu đúng về vaccine để không bị lừa
Chúng ta thường nghe tiêm vaccine để phòng bệnh truyền nhiễm như sởi, bạch hầu, ho gà, uốn ván... Và vì một số bệnh truyền nhiễm kéo dài có thể gây ung thư nên một số loại vaccine phòng bệnh truyền nhiễm cũng đã được chứng minh là gián tiếp phòng ngừa ung thư.
Điển hình là vaccine ngừa virus papilloma ở người (HPV) làm giảm tỉ lệ ung thư cổ tử cung, hoặc vaccine ngừa virus viêm gan B (HBV) giúp giảm tỉ lệ mắc ung thư gan.
Vaccine điều trị ung thư: Ước mơ cũ với công cụ mới
Thật ra, tiêm vaccine là tên gọi chung của phương pháp giúp các tế bào miễn dịch (ví như Cảnh sát bảo vệ) nhận ra và loại bỏ những vật lạ (vi khuẩn, virus, nấm mốc,…) ra khỏi cơ thể bằng cách cho chúng "gặp gỡ" và "huấn luyện" với một số thành phần của vật lạ đó, hoặc toàn bộ vật lạ nhưng đã được làm suy yếu.
Vì khối u phải được xem là vật lạ phát triển không kiểm soát trong cơ thể, ý tưởng dùng vaccine "huấn luyện" các tế bào miễn dịch diệt trừ khối u để chữa ung thư đã có từ rất lâu.
Cách đây gần 130 năm, bác sĩ William Coley (Hoa Kỳ) đã nhận thấy một số bệnh nhân sarcoma (một loại ung thư hiếm) tự nhiên khỏi bệnh sau khi mắc bệnh viêm quầng (erysipelas)! Dù không hiểu cơ chế cụ thể, bác sĩ đã tìm cách kích hoạt hệ miễn dịch của các bệnh nhân bằng việc tiêm Coley vaccine, là hỗn hợp các vi khuẩn gây bệnh viêm quầng (Streptococcus pyogenes và Serratia marcescens) đã được làm bất hoạt.
Tuy nhiên, những thử nghiệm này đã không cho kết quả ổn định và thực sự ấn tượng. Sự xuất hiện và phổ biến của xạ trị (và tiếp đó là hóa trị) những năm sau đó, với hiệu quả điều trị cao hơn đã làm "lu mờ" trường phái dùng vaccine điều trị ung thư.
Dù vậy, vẫn có khá nhiều nhóm nghiên cứu kiên trì tìm tòi cải thiện cách chữa trị ung thư bằng kích thích miễn dịch. Một thử thách lâu đời và hóc búa là làm thế nào để các tế bào miễn dịch nhận ra tế bào ung thư là "kẻ lạ" để loại bỏ. Trên thực tế, tế bào ung thư là những "tên tham nhũng" vô cùng tận nhưng lại xuất phát từ trong nội bộ cơ thể, nên việc loại bỏ chúng quả không dễ dàng gì.
Sự tiến bộ của ngành Miễn dịch học nói chung và Miễn dịch trong ung thư nói riêng đã làm rõ nhiều cơ chế/cách thức mà khối u trốn tránh hay "ru ngủ" các tế bào miễn dịch, góp phần phát triển các phương thức điều trị miễn dịch mới tốt hơn.
Ngoài những dòng thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch như Pembrolizumab, Nivolumab,…mà hiệu quả đã được kiểm chứng và đưa vào sử dụng thực tế (được bảo hiểm chi trả ở nhiều nước đối với nhiều loại ung thư), nhiều nhóm nghiên cứu đã và đang tìm hiểu những phương pháp "đánh thức" hệ miễn dịch khác, mà vaccine điều trị ung thư cũng là một trong những tiếp cận tiềm năng.
Nhìn chung, vaccine điều trị được sản xuất dựa trên các thành phần trích ly từ khối u (kháng nguyên) tiêm vào người với các chất hỗ trợ (tá dược) để kích thích phản ứng miễn dịch.
Một số nhóm nghiên cứu dùng kháng nguyên định sẵn, phổ biến ở loại ung thư đó (ví dụ, MAGE-3 và NY-ESO-1 trong ung thư phổi). Một số nhóm khác lại dùng thành phần khối u đến từ chính bệnh nhân, gọi chung là vaccine tự thân.
Tiềm năng và thử thách
Theo nguyên lý nói trên, vaccine điều trị có tiềm năng "đánh thức" hệ miễn dịch của mỗi bệnh nhân. Những ví dụ thành công bao gồm vaccine sipuleucel-T (Provenge) được FDA phê chuẩn năm 2010 để điều trị ung thư tuyến tiền liệt di căn, hay vaccine BCG dùng điều trị ung thư bàng quang giai đoạn sớm.
Tuy nhiên, câu chuyện không hề đơn giản như vậy. Vaccine dùng kháng nguyên định sẵn có ưu điểm là sản xuất nhanh và sử dụng tiện hơn nhưng không phải khối u nào cũng có đặc tính giống kháng nguyên sử dụng làm "công cụ huấn luyện" đó. Vaccine tự thân có thể có tiềm năng hơn vì sử dụng khối u lấy ra từ chính bệnh nhân, nhưng việc sản xuất tốn thời gian và chi phí cũng thường cao hơn.
Ngoài ra, cần lưu ý ngay cả trong cùng một bệnh nhân thì khối u ở mỗi vị trí (ví dụ: ung thư đại tràng, di căn tới gan và phổi) sẽ có đặc điểm khác nhau. Vì thế, dùng khối u từ một nơi để làm vaccine nhiều khi không giúp hệ miễn dịch nhận dạng và tấn công hết các vị trí u khác.
Mặt khác, kích thước và cách bảo quản khối u sau mổ, trạng thái của hệ miễn dịch cũng rất quan trọng vì kết quả điều trị không chỉ phụ thuộc vào lượng và tính chất của vaccine, mà còn tùy theo cách cơ thể mỗi người phản ứng với vaccine đó.
Chính vì còn nhiều điều chưa rõ và chưa thật tối ưu như vậy nên cần rất nhiều nghiên cứu nữa mới có thể chắc chắn về cách tiếp cận này.
Hiệu quả trên diện rộng hay "ăn may"
Quay lại việc quảng cáo rầm rộ về vaccine chữa lành ung thư.
Với các phân tích như vừa nên, trước hết, chúng ta cần hiểu đúng khái niệm "số liệu lâm sàng" và "nghiên cứu lâm sàng". Nhiều người nghĩ rằng chỉ cần có sử dụng trên người và ghi số liệu lại là đủ để gọi là bằng chứng lâm sàng. Vấn đề không hề đơn giản như vậy!
Vì sự may mắn luôn có thể xảy ra, bản thân căn bệnh có thể không tái phát, không xấu đi nên cần phải thiết kế nghiên cứu kỹ lưỡng để đánh giá hiệu quả của điều trị là thật hay chỉ là do "ăn may".
Thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled clinical trial - RCT) là những cách làm công phu, thường được sử dụng trong việc thẩm định mức độ hiệu nghiệm của một phương pháp điều trị, trên một nhóm bệnh nhân cụ thể. Khi đó sẽ phải có nhóm đối chứng (control group, điều trị theo cách thông thường) để so sánh với nhóm điều trị.
Ngoài ra các ca bệnh phải được chọn ngẫu nhiên (randomization) để các yếu tố ảnh hưởng tới kết quả được phân bố đồng đều và nếu được thì dùng phương pháp "mù đôi" (double blind) tức là cả bác sĩ lẫn bệnh nhân đều không biết đang điều trị bằng phương pháp nào để giảm thiểu ảnh hưởng do tâm lý và/hoặc đối đãi khác biệt.
Số lượng bệnh nhân cũng phải đủ lớn ở mỗi nhóm (vài trăm, vài nghìn) thì sự khác biệt giữa phương pháp mới và cũ mới được kiểm định với độ tin cậy cao, làm giới khoa học thật sự tin tưởng.
Theo quan điểm này thì những phát ngôn trên các trang mạng môi giới chữa bệnh như "đã thử nghiệm trên vài chục hay vài trăm người, thấy tốt" là mù mờ và độ tin cậy không hề cao.
Nhiều ca bệnh mà các trang đó giới thiệu thật ra là có dùng kèm… hóa trị, xạ trị, tức không loại trừ được khả năng cải thiện là nhờ các phương pháp chính thống sẵn có.
Bên cạnh đó, nhiều trường hợp thật ra là phát hiện sớm, đã qua phẫu thuật cắt bỏ (trị lành) và khả năng cao là sẽ không tái phát mà không cần điều trị đặc hiệu gì thêm.
Với những thực tế trên, vaccine này cần được chứng minh nó tốt hơn "để tự nhiên" theo cách nghiên cứu nghiêm ngặt nói trên.
Bác sĩ tại Nhật Bản khuyên chưa nên dùng
Ở Nhật Bản, "điều trị tốt" có nghĩa là "điều trị được bảo hiểm chi trả". Đó là vì những điều trị đó đã có đầy đủ số liệu chứng minh hiệu quả thực sự trên nhóm bệnh nhân cụ thể (vượt qua giai đoạn 3 của thử nghiệm lâm sàng) và được chi trả bảo hiểm để nhiều bệnh nhân có thể chọn theo và có lợi ích lớn nhất.
Các bác sĩ ở Nhật thường chỉ khuyến khích bệnh nhân theo các điều trị nằm trong phạm vi bảo hiểm bởi chúng mang lại hiệu quả chắc chắn và cao nhất (dù không phải 100%, nhưng là cao nhất được biết tới), với chi phí mà bệnh nhân trả thấp nhất ở thời điểm hiện tại. Người Nhật rất quan tâm tới tổn hao tài chính, và xem đó là "tác dụng phụ" cần cân nhắc của điều trị.
Nói thêm về đề tài vaccine tự thân, đúng là có nhóm nghiên cứu đã từng tiêm vaccine vào độ 20 bệnh nhân ung thư gan giai đoạn sớm, đã qua phẫu thuật cắt bỏ trong một nghiên cứu giai đoạn 2 tại Trung Quốc.
Báo cáo năm 2004 cho thấy so với việc theo dõi đơn thuần sau mổ (ở tầm 20 bệnh nhân khác), việc tiêm vaccine sau mổ làm giảm tỉ lệ tái phát nhưng giới chuyên môn vẫn còn hoài nghi về sự chắc chắn của kết quả và yêu cầu thử nghiệm giai đoạn 3, trên nhiều bệnh nhân hơn.
Nhưng đã qua 15 năm mà chưa thấy kết quả báo cáo, nên đương nhiên các Hiệp hội ung thư tại Nhật (và cả thế giới) chưa tin.
Trong các loại ung thư khác, số liệu cũng chưa rõ ràng và thuyết phục nên các bác sĩ khuyên KHÔNG NÊN tự trả tiền điều trị kiểu này, mà chỉ nên cân nhắc tham gia nếu có thử nghiệm lâm sàng bài bản ở các bệnh viện lớn.
… Nhưng là tiềm năng ở thị trường Việt Nam?
Người Việt Nam nhìn chung là hay suy nghĩ cảm tính, chỉ cần "nghe nói tốt lắm" là hùa theo mà không cân nhắc xem thông tin đó tới từ đâu. Một bà hàng xóm nghe có vẻ kém tin cậy, nhưng ngay cả một Tiến sĩ -ngoài ngành y sinh, nhà sản xuất, thậm chí những Giáo sư Bác sĩ nhưng có quan hệ lợi nhuận với sản phẩm,…đều không đủ độ tin cậy.
Y giới thường sắp xếp độ tin cậy theo hình tháp từ thấp đến cao, theo đó nguồn thông tin có giá trị cao nhất là từ các Hiệp hội chuyên ngành, thấp nhất là kinh nghiệm cá nhân của các chuyên gia. Các nguồn như từ "bà hàng xóm" thì lẽ ra không cần phải bàn nữa (thuộc nhóm Ngoại hạng!) nhưng buồn thay, chúng vẫn được nhiều người tin ngay, dùng ngay.
Trong bối cảnh vàng thau lẫn lộn, niềm tin vào giới chuyên môn bị khủng hoảng "mất đáy", thị trường Việt Nam đang là nơi béo bở để những sản phẩm như vaccine chữa ung thư xâm nhập và phát triển.